Bệnh Cơ-Xương-Khớp
19/10/2024Chẩn đoán và điệu trị các bệnh Cơ Xương Khớp theo phương pháp y học cổ truyền
Trải qua quá trình dài tiến hóa, con người là động vật tiến hóa cao nhất. Cơ thể con người chúng ta được cấu tạo bởi các hệ: hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, hệ tiêu hóa, hệ nội tiết, hệ hô hấp, hệ ngũ quan, hệ tiết niệu và bài tiết, hệ miễn dịch, hệ vận động, hệ sinh dục. Sự phân chia mang tính chất tương đối vì các hệ này có liên quan mật thiết với nhau, cấu trúc và chức năng của chúng cũng rất tinh vi, chính vì thế mà nhiều khâu hiện nay y học chưa hiểu biết một cách rõ ràng, mà chỉ giải thích theo các giả thuyết khác nhau.
Hệ vận động là một trong các hệ cấu tạo nên cơ thể con người, nó giúp cơ thể di chuyển tìm kiếm thức ăn cũng như bảo vệ cơ thể. Hệ vận động được cấu tạo bởi hai hệ nhỏ khác đó là hệ xương khớp và hệ cơ.
I – HỆ XƯƠNG
Bộ xương của người trưởng thành trung bình có khoảng 206 xương tạo nên, được phân chia như sau:
Xương đầu mặt: 22 xương
Xương sống: 26
Xương sườn : 24 Xương chi dưới: 62
Xương móng: 1
Xương ức: 1
Xương chi trên: 64
Các xương của tai: 6
Ngoài ra còn một số xương vùng và xương thêm nằm ở gân cơ và một số vị trí khác.
Nam và nữ có số xương giống nhau – khoảng 206 xương. Nhưng nói chung bộ xương nữ nhẹ và nhỏ hơn. Để chứa được thai nhi đang phát triển trong suốt thời gian mang thai, khung chậu của phụ nữ có dạng thuyền (hình chậu) ngày càng nở rộng, làm cho hên hông có hình dạng đặc thù. Tuy nhiên, đôi vai của phụ nữ tương đối hẹp, ở nam giới có kích thước ngược lại: đôi vai rộng và hông thon hẹp.
Xương có một lớp ngoài cứng, dày, chắc chắn như bó lông và có thể chịu đựng các trọng lực, nối với nhau bằng các khớp và di chuyển bằng các cơ được gắn ở hai đầu, các xương cung cấp khung để bảo vệ các bộ phận mỏm và mong manh của cơ thể, trong khi vẫn cho phép linh hoạt trong chuyển động. Thêm vào đó, bộ xương còn là khung hay giàn mà các hộ phận khác của cơ thể được treo và chống đỡ.
Mỗi xương có một hình dáng đặc biệt vì có vai trò riêng. Trong các bộ phận đó của bộ xương, những nơi được yêu cầu phải linh hoạt, hơn thì sụn sẽ thay thế cho xương, các khớp nối và dây chằng của xương làm cho bộ xương trở thành một bộ máy có rất nhiều khớp bao bọc bên ngoài.
II – CÁC CƠ
Mỗi cử động của cơ thô, như cái chớp mắt của mi mắt cho đến các cú nhảy liên tục được thực hiện nhờ các cơ và gân, và những cái duỗi cơ đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền năng lượng từ một cơ đến xương mà nó chuyển động. Đằng sau các hoạt động này là các cơ cấu tinh vi phức tạp mà ngay cả khi thực hiện một động tác đơn giản như quay đầu lại, cũng là sự phối hợp của một loạt hoạt động phức tạp có liên quan đến não, các dây thần kinh và các cơ quan cảm giác.
Cơ thường bám vào hai xương khác nhau nên khi cơ cọ làm cho xương cử động, giúp cho cơ thể di chuyển được trong không gian, thực hiện được các động tác lao động.
Theo giải phẫu học, các nhóm cơ trên cơ thể con người gồm có cơ cổ (Neck); cơ vai (Shoulder); cơ tay trước hay còn gọi là cơ nhị đầu, con chuột (Biceps); cơ tay sau hay còn gọi là cơ tam đầu (Triceps); cơ cẳng tay (Forearms); cơ lưng (Back); cơ ngực (Cheats); cơ bụng (Abs); cơ mông (Glutes); cơ đùi trước hay cơ tứ đầu (Quads); cơ đùi sau (Hamstrings) và cơ bắp chân (Calves)
Có ba loại cơ khác nhau trong cơ thể.
Cơ xương hay cơ chủ động: Cùng với các xương và gân, cơ này chịu trách nhiệm về mọi hình thái vận động có ý thức, chảng hạn như chạy lên một dãy cầu thang, nó còn liên quan đến các phản ứng tự động được gọi là các phản xạ.
Cơ trơn (gọi như thế vì cách thức nó làm việc dưới kính hiển vi): Liên quan đến chuyển động vô thức của các cơ quan bên trong như ruột, bàng quang… Cơ tim: Tạo nên kích thước chính của tim.
Các cơ chủ động, còn được gọi là cơ vân (sọc) bởi cách sắp xếp các sợi tạo thành chúng làm cho chúng có sọc bên ngoài khi nhìn dưới kính hiến vi. Chúng có khả năng tạo ra những co thắt đột ngột, chớp nhoáng, ví dụ như khi người nhảy lên và duy trì sự co thắt cố định nhằm giữ cơ thể theo một tư thế riêng biệt.
Các cơ chủ động được phân bố khắp cơ thể, tạo nên một tỷ lệ rất lớn về trọng lượng, lên đến 25% khi một em bé mới sinh. Chúng khá giống các lò xo được gắn ở nhiều điểm khác nhau của bộ xương và điều khiển sự chuyển động của các xương khác nhau, từ một cơ bàn đạp, một xương nhỏ bé trong tai giữa, cho đến cơ mông to lớn, tạo nên kích thước của mộng và điều khiển khớp mông.
Ở cơ trơn hay cơ vô thức, mỗi sợi là một tế bào dài, hình thoi. Cơ trơn không nằm trong ý thức kiểm soát của não, nhưng chịu trách nhiệm về co thắt cần thiết trong các quá trình, ví dụ như tiêu hoá, nơi mà nhịp co bóp của ruột (nhu động) di chuyển thức ăn được tạo nên nhờ sự co thắt của cơ trơn.
Cơ tim có một cấu trúc rất giống với cơ chủ động, nhưng các sợi ngắn và to, tạo thành một tấm lưới dày đặc.
III – ĐÔNG Y VỚI HỆ XƯƠNG KHỚP
Đông y quan niệm tất cả các bệnh có đau nhức ở khớp xương, có sưng nóng đỏ hay chỉ tê, nặng ở tại khớp đều nằm trong phạm trù chứng Tý hay bệnh Tý. Tý có nghĩa là tắc nghẽn không thông.
Quan niệm về bệnh sinh
Do sức đề kháng và khả năng tự bảo vệ của cơ thể không đầy đủ, các yếu tố gây bệnh là Phong – Hàn – Thấp cùng phối hợp tác động xâm phạm đến kinh lạc cơ – khớp, làm cho sự vận hành của khí huyết bị tắc nghẽn không thông gây ra sưng đau, hoặc không sưng mà chỉ đau tê mỏi nặng ở một khu vực khớp xương hoặc toàn thân.
Do chính khi hư suy vì mắc bệnh lâu ngày, hay do người già các chức năng hoạt động cơ thể bị suy yếu, làm cho khí huyết cũng giảm sút không nuôi dưỡng được cân mạch gây nên tình trạng thoái hóa khớp xương và gây nên đau. Vì vậy khi chữa các bệnh về khớp, các phương pháp chữa theo YHCT đều nhằm lưu thông khí huyết ở cân ở xương, đưa các yếu tố gây bệnh (phong, hàn, thấp, nhiệt) ra ngoài và đề phòng chống lại các hiện tượng báo động sự tái phát của bệnh khớp xương.
Quan niệm về chẩn đoán
YHCT chẩn đoán bệnh dựa trên quan sát, hỏi và thăm khám người bệnh, riêng đối với bệnh lý khớp xương, dựa trên nguyên nhân gây bệnh tùy thuộc vào biểu hiện chứng trội mà chẩn đoán bệnh như: biểu hiện đau không cố định, di chuyển từ nơi này sang nơi khác, kèm theo sợ gió, nổi mẩn ngứa… thì được chẩn đoán là phong tý và như thế sẽ có nhiệt tý, thấp tý, hàn tỷ…
Ngoài ra, việc chẩn đoán còn dựa trên các chức năng tạng phủ của cơ thể, tùy thuộc vào triệu chứng sẽ có chẩn đoán tạng bệnh kèm theo như can thận hư, tâm tỳ
hu…
Trên lâm sàng, thường bệnh nhân có biểu hiện các triệu chứng phối hợp, ít khi tách bạch từng biểu hiện riêng biệt, nên thực tế lâm sàng thường có các chẩn đoán bệnh lý như: phong hàn thấp tý, phong thấp nhiệt tý, chứng tỷ Can Thận âm
hu…
Quan niệm về điều trị
Do quan niệm sưng – đau khớp xương là do tắc nghẽn sự vận hành của khí huyết, và do chức năng tạng phủ suy yếu ảnh hưởng đến việc tạo ra khí huyết làm cho khí huyết giảm sút không nuôi dưỡng cân mạch đầy đủ gây ra đau nhức khớp xương nên việc điều trị nhằm giải tỏa sự tắc nghẽn, đuổi nguyên nhân gây bệnh ra ngoài và bổ dưỡng khí huyết – mạnh gân xương.
Các phương pháp điều trị bao gồm từ không dùng thuốc như: tập luyện vận động, dưỡng sinh, xoa bóp, chườm nóng, ăn uống và châm cứu, đến việc dùng thuốc vào điều trị bên ngoài như đắp bó thuốc ngoài khớp sưng đau đến uống trong, sử dụng các loại thực vật, động vật và khoáng chất vào điều trị.
Trong việc điều trị, các thầy thuốc YHCT còn chú ý đến bệnh mới mắc hay bệnh đã lâu ngày, hoặc tái phát nhiều lần.
Nếu nói mắc thì dùng các phương pháp để loại bỏ yếu tố gây bệnh (phong, hàn, thấp) là chính.
Nếu bệnh lâu ngày hay tái phát nhiều lần thì vừa phù chính (nâng đỡ tổng trạng, bổ khí huyết), vừa loại bỏ yếu tố gây bệnh để tránh tái phát và đề phòng những biến chứng và những di chứng về sau.
Liên hệ ngay với Khải Minh Đường để nhận tư vấn. Hoặc theo dõi các bài nói chuyện của Ths. Bs. Nguyễn Hữu Việt Anh để hiểu hơn về kiến thức bệnh lý.