Đau lưng trong Đông Y gồm những thể bệnh nào?
25/10/2024Đau lưng là một hội chứng thể hiện bằng hiện tượng đau ở vùng được giới hạn từ đốt sống D1 đến ngang đĩa đệm L5-S1 bao gồm: da, tổ chức dưới da, cân, cơ, dây chằng, khớp xương và các bộ phận ở sâu. Đau có thể kèm theo biến dạng, hạn chế vận động hoặc không.
Phân loại các loại đau lưng trong Tây Y.
Cách thức chuẩn đoán dựa trên dấu hiệu lâm sàng, xét nghiệm, và chuẩn đoán hình ảnh (X-Quang, MRI…).
Phân loại đau lưng: Đau lưng cấp và Đau lưng mạn.
Đau lưng do nguyên nhân cơ học
Nguyên nhân là do căng giãn cơ dây chằng cột sống quá mức. Ví dụ như chấn thương, động tác sai tư thế, thoái hóa đĩa đệm cột sống, thoát vị đĩa đệm CSTL…
Các triệu chứng lâm sàng với loại đau lưng do nguyên nhân cơ học gồm có:
Đau lưng do giãn dây chằng quá mức: Đau xuất hiện đột ngột sau, bê vác vật nặng, sau những hoạt động sai tư thế (đi dép cao gót, cử động đột ngột), rung xóc do đi xe đường dài…
Đau thường kèm co cứng khối cơ cạnh cột sống, đường cong sinh lý cột sống mất, tư thế cột sống lệch vẹo theo tư thế chống đau hoặc do khối cơ cạnh sống co cứng đẫn đến hình dáng cột sống ở tư thế ưỡn hoặc gù, vẹo lệch sang trái hoặc phải. Thầy thuốc khám ấn ngón tay dọc các gai sau đốt sống, khe liên đốt ở hai bên cột sống có thể xác định được điểm đau và đo độ giãn cột sống giảm.
Thoát vị đĩa đệm cột sống lưng: Tùy vị trí thoát vị mà có thể biểu hiện đau lưng hoặc đau thần kinh tọa (nếu bị chèn ép ở L5 đau thắt lưng lan xuống mông, phía sau ngoài đùi, mặt trước bên cẳng chân, mắt cá ngoài, qua mu chân tới ngón chân cái; nếu tổn thương S1 thì đau thắt lưng lan xuống mặt sau mông, đùi, cẳng chân, gân Achin, mắt cá ngoài, bờ ngoài gan chân tới ngón 5). Khám: bệnh nhân có hội chứng chèn ép rễ (dấu hiệu bấm chuông và lasegue dương tính), phản xạ gân xương chi dưới giảm hoạc mất, nếu chèn ép nặng có thể rối loạn cơ tròn, có thể teo cơ mông đùi và cẳng chân nếu bị đau kéo dài.
Đau lưng do một (vài) bệnh toàn thân
Nguyên nhân của việc đau lưng tới từ các một (vài) bệnh toàn thân như các bệnh do thấp (Viêm cột sống dính khớp, viêm khớp phản ứng…), do nhiễm khuẩn (Viêm đĩa đệm đốt sống do lao hoặc nhiễm khuẩn…), do u lành hoặc ác tính nguyên phát hoặc di căn, do nội tiết (loãng xương, vôi hóa sụn khớp, nhuyễn xương), do nguyên nhân nội tạng (Sỏi thận, viêm quanh thận, loét hành tá tràng…).
Đau thắt lưng là triệu chứng của một bệnh toàn thân. Người bệnh thương có triệu chứng khác đi kèm, gồm:
– Nếu nguyên nhân nhiễm khuẩn thường có hội chứng nhiễm trùng
– Nếu nguyên nhân do ung thư: Đau ngày càng tăng không có đáp ứng với thuốc giảm đau kèm gầy sút cân nhanh..
– Nếu nguyên nhân do phình tách động mạch: Bệnh nhân đau dữ dội vùng thắt lưng ngày càng tăng kèm theo dấu hiệu shock, da xanh, thiếu máu.
Quan điểm của Đông Y
Bệnh nguyên và bệnh sinh
Trong Đông Y, bệnh đau lưng còn được gọi là Yêu thống, gồm có các nguyên nhân gây bệnh như sau:
Tà khí phong hàn thấp nhiệt xâm phạm do ở nơi ẩm lạnh, lội nước, dầm mưa, mặc áo ướt lạnh, ra mồ hôi lại gặp gió lạnh, thay đổi thời tiết khí hậu nóng lạnh đột ngột làm cho phong hàn thấp (tà khí hàn thấp) nhân lúc chứng khí có thể suy về khí hư xâm phạm cơ thể làm cho kinh lạc tắc trở khí huyết vận hành không thông mà gây bệnh.
Khí trệ huyết ứ do bị chấn thương (bị đánh, vấp ngã, mang vác quá sức, chơi thể thao…), hoạt động sai tư thế (đi xe máy, lái xe) làm tổn hại kinh mạch, khí huyết trở trệ không thông mà sinh đau nhức.
Can thận bất túc, phong hàn thấp tà xâm phạm: Người bẩm tố tiên thiên không đủ, người có tuổi thiên quí suy hoặc phòng dục quá độ làm cho thận tinh suy tổn; thận hư không tự dưỡng được Can mộc; Can thận hư không nuôi dưỡng được cân cốt mà sinh bệnh.
Các thể bệnh đau lưng trong Đông Y
Đau lưng do hàn thấp
Dân gian còn gọi là Yêu thông bối. Bệnh nguyên: Hàn thấp tà. Bát cương: Biểu thực tà. Bệnh nhân thấy đau lưng sau khi bị lạnh, mưa ẩm thấp, đau nhiều khi thời tiết lạnh ẩm âm u, quay trở khó khăn, nằm yên không đỡ đau, thường đau một bên, các cơ sống lưng bên đau co cứng, chườm nóng thì đỡ, sợ gió, sợ lạnh, rêu lưỡi nhờn, mạch trầm trì hoãn hoặc huyền khẩn.
Lý do vì tà khí hàn thấp lưu trệ ở kinh lạc, trở tắc khí huyết mà gây ra bệnh. Hàn là âm tà có tính ngưng kết gây đau có chỗ nhất định, đau dữ dội, gặp lạnh làm cho huyết càng ngưng sáp gây đau dữ. Thấp là âm tà được dương vận hóa, nằm yên thấp tà càng đình trệ cho nên khi nằm mà đau không đỡ, trời lạnh âm u là trong khí trời hàn thấp nhiều gây đau tăng lên.
Phương pháp điều trị: Khu phong, tán hàn, trừ thấp, ôn thông kinh lạc. Tức là xua đuổi tà khí, tiêu trừ tà khí hàn, loại bỏ tà khí thấp và làm ấm, thông suốt các kinh lạc, giúp khí huyết lưu thông, giảm đau nhức.
Đau lưng do huyết ứ
Dân gian còn gọi là Yêu thống huyết ứ. Bệnh nguyên: Do hoạt động sai tư thế, chấn thương. Bát cương: thuộc Biểu thực. Bệnh nhân sau mang vác nặng lệch tư thế, hoặc sau 1 động tác thay đổi tư thế đột ngột bị đau một bên sống lưng, đau như dùi đâm, đau ở một chỗ nhất định. Nếu chứng nhẹ thì cúi ngẩng khó khăn; nặng thì không quay trở được; chỗ đau cự án, chất lưỡi có ban tím, mạch sáp.
Lý do vì các chấn lương làm lạc mạch bị tổn thương, ứ huyết trở trệ huyết mạch, làm khí huyết không được thông lợi gây đau lưng.
Phương pháp điều trị: Hành khí hoạt huyết, thư cân hoạt lạc. Tức là giải trừ ứ trệ khí huyết, tăng cường tuần hoàn máu, thư giãn các cơ, gân, khớp và thông suốt các kinh lạc.
Đau lưng do can thận bất túc phong hàn thấp tà thừa cơ xâm phạm (thoái hoá cột sống)
Đây là sự kết hợp giữa sự suy yếu của thận (tinh khí) với phong hàn thấp. Tạng Cận (thận) là mệnh Thủy, chủ về cốt tủy, giúp nuôi dưỡng Can (gan) – mệnh Mộc, chủ về khớp – cân – cơ. Khi tinh khí của thận suy hư không thể cung cấp đầy đủ cho gan, vì vậy làm cho xương sống mất/thiếu khí huyết nuôi dưỡng.
Khi mắc, bệnh nhân cảm thấy lưng đau mỏi là chính, thường không có điểm đau rõ ràng, các cơ sống lưng không co cứng, đau lâu ngày, hay tái phát, nghỉ ngơi thì giảm, khó nhọc đau tăng, kèm theo là các biểu hiện của hội chứng:
– Thận dương hư như: Người mệt mỏi, gối mỏi, tiểu đêm nhiều lần, di tinh liệt dương, người lạnh, chân tay lạnh, lưng lạnh, lưỡi nhạt, ít rêu, mạch trầm tế…..
– Thận âm hư như: Người mệt mỏi, cốt chưng, triều nhiệt, ngủ ít, ngũ tâm phiền nhiệt, thỉnh thoảng có cơn bốc hoả, tiểu vàng, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch trầm tế sác.
Phương pháp điều trị: Bồi bổ thận dương hoặc thận âm (tùy biểu hiện hội chứng) và Khu phong, tán hàn, trừ thấp thông kinh lạc. Tức là xua đuổi tà khí, tiêu trừ tà khí hàn, loại bỏ tà khí thấp và làm ấm, thông suốt các kinh lạc, đồng thời kết hợp với việc bồi bổ thận dương (nếu là dương hư như) hoặc thận âm (nếu là âm hư như).
Đau lưng do thấp nhiệt
Dân gian còn gọi là thấp nhiệt yêu thống. Bát cương: Biểu thực nhiệt. Bệnh nhân thấy đau lưng kèm sưng nóng đỏ, vùng cột sống lưng đau, vận động cột sống khó khăn, sốt, sợ gió, ra mồ hôi, rêu lưỡi vàng mỏng, chất lưỡi đỏ, nước tiểu vàng, mạch hoạt sác. Đau lưng kèm sưng nóng đỏ là thuộc nhiệt.
Phương pháp điều trị: Thanh nhiệt, khu phong, trừ thấp hành khí hoạt huyết. Tức là Làm mát, giảm nhiệt, xua tan tà khí phong, bỏ tà khí thấp và thông thoáng kinh lạc.
Liên hệ ngay với Khải Minh Đường để được chúng tôi tư vấn!